Quy trình VietGAP: Chặng đường gian nan

KTNT – Ai cũng biết, nếu có được chứng chỉ VietGAP, các sản phẩm nông nghiệp của chúng ta sẽ có “giấy thông hành” để thuận lợi hơn khi vào thị trường thế giới. Nhưng, việc xây dựng những vùng chuyên canh rau quả an toàn theo tiêu chuẩn VietGAP lại gặp rất nhiều khó khăn, chủ yếu do trình độ nhận thức của nông dân còn hạn chế. Và cũng do người tiêu dùng chưa tin vì trên thị trường khó phân biệt đâu là rau an toàn.

Vùng chuyên canh rau của nông dân xã Bình Ngọc (Tuy Hòa-Phú Yên).

Bài 1: VietGAP là gì, ai hưởng lợi?

Nông dân thiếu thông tin

Mặc dù VietGAP đã được ban hành và áp dụng vào thực tế sản xuất từ lâu nhưng cho đến nay nhiều nông dân vẫn chưa biết thông tin về quy trình này.

Ngay tại vùng sản xuất rau Đông Anh (Hà Nội), nơi nông dân tiếp cận nhanh với tiến bộ kỹ thuật và đã có truyền thống sản xuất rau an toàn nhưng vẫn có tới 18,33% số hộ được điều tra cho biết đã nghe nói về VietGAP nhưng chưa hiểu đúng quy trình. Và nếu so sánh điều kiện sản xuất thực tế của các hộ dân ở đây với quy trình VietGAP thì nhiều chỉ tiêu không đạt. Ví như, khâu giống, quy trình VietGAP yêu cầu phải xử lý mầm bệnh thì 100% số hộ được điều tra ở Đông Anh đều chưa làm việc này; tỷ lệ sử dụng thuốc bảo vệ thực vật theo hướng dẫn bao bì chỉ đạt 3,33%; 100% sản phẩm sau thu hoạch để dưới đất trong khi quy trình VietGAP nghiêm cấm việc này; không có thói quen ghi chép nhật ký đồng ruộng trong khi theo tiêu chuẩn VietGAP, đây là điều bắt buộc.

Gía bán thấp do khó phân biệt

Không chỉ thiếu thông tin, nông dân sản xuất theo tiêu chuẩn VietGAP còn nản khi giá bán nông sản không cao hơn bình thường. Khu đất rộng 12ha của HTX Rau an toàn (RAT) Hòa Bình, xã Yên Nghĩa (Hà Đông – Hà Nội) được làm nhà lưới để ngăn ngừa sâu bệnh, hạn chế ảnh hưởng của thời tiết. Toàn bộ việc tưới tiêu cũng được xây dựng theo quy trình khép kín, nước giếng khoan sâu 60m đã qua xử lý bằng hệ thống lọc tiên tiến. Chị Nguyễn Thị Thơm, xã viên HTX cho biết, 314 hộ dân ở đây được tham gia khoá tập huấn kỹ thuật trồng và giám sát RAT theo tiêu chuẩn VietGAP. Sản phẩm cung cấp cho các trường học trong xã và một số cơ quan, đơn vị trên thành phố. Tuy nhiên, không phải nhà nào cũng bán được với giá thực của RAT.

Theo ông Trình Văn Vĩnh, Phó chủ nhiệm HTX, vùng RAT của HTX hình thành từ đầu năm 2006, với hơn 2ha. Ngay khi bắt tay vào sản xuất đã gặp không ít khó khăn về hạ tầng, đầu ra cho sản phẩm. Đến năm 2008, lãnh đạo địa phương mới đầu tư "mạnh tay", chỉ đạo quyết tâm xây dựng thành công vùng RAT. Theo đó, HTX được đầu tư trên 1,1 tỷ đồng, xã viên đóng góp 600 triệu đồng để cải tạo hệ thống điện, nước, xây dựng nhà lưới. Cán bộ HTX lo "đầu ra". Tuy nhiên, số lượng tiêu thụ không được là bao, chỉ chiếm 20% tổng sản lượng rau thu hoạch của bà con.

Tuy nhiên, đến nay HTX Hoà Bình vẫn chưa được cấp giấy chứng nhận VietGAP dù tất cả xã viên đều đã thực hiện tốt quy trình này. Điều này khiến không ít nông dân nản.

Theo Cục Bảo vệ thực vật (Bộ Nông nghiệp và PTNT), sau hơn 4 năm thí điểm, mới chỉ có 5% diện tích trồng rau trên cả nước thực hiện được tiêu chuẩn VietGAP. Đây là con số quá nhỏ trong khi tiềm năng sản xuất, xuất khẩu của chúng ta rất lớn và yêu cầu về vệ sinh an toàn thực phẩm rất bức thiết.

TS. Trần Thị Bá (Đại học Cần Thơ) cho rằng, muốn trồng rau, quả theo tiêu chuẩn VietGAP, nông dân phải thực sự an tâm về đầu ra, bởi chi phí sản xuất cao, đầu tư nhiều (nhà lưới, phân bón…). Nhưng do chưa có các cửa hàng chuyên biệt bán rau an toàn hoặc xuất khẩu với số lượng lớn; do người tiêu dùng còn nghi ngờ nên giá rau an toàn không khác biệt nhiều so với rau thông thường bởi vậy canh tác theo ViệtGAP chưa thu hút được nông dân tham gia.

Khó tại…

TS. Nguyễn Văn Bộ, Giám đốc Viện Khoa học nông nghiệp Việt Nam cho rằng, nguyên nhân sâu xa của việc còn quá ít diện tích sản xuất áp dụng tiêu chuẩn VietGAP là do chưa tích tụ được ruộng đất, quy mô sản xuất nhỏ, phân tán, chủ yếu là hộ gia đình, quy trình kỹ thuật chưa đồng nhất giữa các địa phương. Nhưng nguyên nhân lớn hơn cả vẫn do nông dân chưa ý thức rõ ràng về vệ sinh an toàn thực phẩm.

Theo TS. Phạm Văn Chương (Viện Khoa học kỹ thuật nông nghiệp Bắc Trung Bộ), vấn đề mấu chốt để sản xuất theo VietGAP còn khó khăn là do các cơ quan chức năng chưa có phương thức phân định rau an toàn với rau thông thường trên thị trường. Việc sử dụng các biện pháp kỹ thuật để phân định và quản lý chất lượng rau gặp khó khăn và thiếu thực tế, do rau quả là mặt hàng thực phẩm tươi sống, nhanh hỏng, được kinh doanh với khối lượng lớn, trên địa bàn rộng với nhiều người tham gia. Nếu đánh giá chất lượng bằng phương pháp cảm quan không bảo đảm độ tin cậy; còn xác định các chỉ tiêu vệ sinh an toàn thực phẩm bằng các phương pháp thí nghiệm thì đòi hỏi thời gian dài, ít nhất mất 2-3 ngày và chi phí quá lớn (1,5 – 3 triệu đồng/mẫu xét nghiệm).

Bên cạnh đó, việc quản lý trồng, chăm sóc và chất lượng rau, quả an toàn có nơi bị buông lỏng, không kiểm soát được khiến người tiêu dùng chưa tin tưởng vào chất lượng. Do còn nhiều vướng mắc từ quá trình triển khai nên quy trình VietGAP cho rau, quả dù đã được ban hành hơn 1 năm nhưng vẫn chưa thu hút được các doanh nghiệp và nông dân cùng tham gia.

Tiền Lệ, VietGAP và giấc mơ vào siêu thị

Khi nhu cầu rau sạch, rau an toàn (RAT) trên thị trường ngày càng bức thiết thì mô hình trồng RAT tại Hợp tác xã (HTX) Tiền Lệ, xã Tiền Yên (Hoài Đức – Hà Nội) thực sự là hướng đi giàu tiềm năng. Những nông dân nơi đây còn có tham vọng đưa sản phẩm của mình vào siêu thị.

Nằm ven sông Đáy, Tiền Lệ được thiên nhiên ưu đãi cho dải đất phù sa màu mỡ, thích hợp với việc canh tác rau màu. Phần lớn diện tích đất của HTX được dùng cho việc trồng rau màu, nghề này cũng mang lại cuộc sống ổn định cho người dân. Hàng ngày, những sọt rau xanh mướt nối đuôi nhau đến với các chợ đầu mối để từ đó đến với người tiêu dùng, chủ yếu ở Hà Nội. Tuy nhiên, hình thức canh tác nhỏ lẻ, manh mún và tự phát, cộng với những biến động thất thường trên thị trường khiến người trồng rau gặp nhiều khó khăn.

Vì thế, để cứu vãn cả một vùng rau, năm 2007, Phòng Nông nghiệp và PTNT huyện Hoài Đức phối hợp với Viện Nghiên cứu rau quả Trung ương thực hiện Dự án sản xuất RAT, triển khai tại một số xã trên địa bàn huyện. Một hệ thống giếng khoan quy mô gồm 18 chiếc được đầu tư xây dựng. Viện Nghiên cứu rau quả Trung ương còn cử 2 kỹ sư về trực tiếp theo dõi và tư vấn kỹ thuật cho bà con.

Đến nay, sau gần 3 năm triển khai, dự án RAT ở HTX Tiền Lệ ngày càng chứng tỏ được tính ưu việt. Anh Nguyễn Như Khương, Chủ nhiệm HTX Tiền Lệ cho biết: "Trồng rau sạch vốn là mơ ước của không ít hộ dân làng Tiền Lệ. Nhưng vì không có hướng đi cụ thể nên giấc mơ ấy vẫn chưa thực hiện được. Song từ khi triển khai dự án đến nay, hầu như vụ thu hoạch nào, sản phẩm RAT Tiền Lệ làm ra cũng được tiêu thụ hết".

Tuy nhiên, thị trường tiêu thụ chính của sản phẩm RAT Tiền Lệ hiện nay vẫn là các chợ đầu mối rau quả trên địa bàn Hà Nội. Nhưng, với tiềm năng và những gì đang làm được, chợ rau quả vẫn chưa phải là "bến đỗ" cuối cùng mà các thành viên HTX Tiền Lệ mong muốn cho sản phẩm của mình. Các siêu thị lớn mới là mục tiêu hướng tới của RAT Tiền Lệ. Tháng 6 vừa qua, Viện Nghiên cứu rau quả Trung ương đã chính thức công nhận 9 loại rau được sản xuất tại 2 vùng chuyên canh rau Tiền Lệ (xã Tiền Yên) và Phương Viên (xã Song Phương) thuộc huyện Hoài Đức đạt tiêu chuẩn VietGAP.

Hiện, trung bình mỗi ngày các vùng rau này cung cấp cho thị trường Hà Nội hàng chục tấn rau xanh, rau lấy củ và rau lấy quả các loại.

Anh Nguyễn Khắc Vinh, một trong 18 thành viên của HTX RAT Tiền Lệ cho biết: "Khu ruộng nhà tôi có 4 sào, năm vừa rồi canh tác được 8 vụ rau, trừ chi phí cũng thu được hơn 20 triệu đồng".

Niềm vui và ước mơ của người Tiền Lệ cũng đang dần trở thành hiện thực.

Bài 3: Cách nào để VietGAP đi vào cuộc sống?