IV. Triển vọng sản xuất Jatropha ở Việt Nam
1. Đánh giá chung về cây Jatropha
Ưu thế đặc biệt nổi trội của cây Jatropha hơn hẳn các cây trồng khác, khi được lựa chọn làm cây lâm nghiệp sản xuất hàng hóa lớn:
– Thị trường tiêu thụ sản phẩm là diesel sinh học từ Jatropha được coi như là vô hạn. Nhà khoa học Đức Klause Becker còn cho rằng “Jatropha là cây trồng đầu tiên mà người dân làm ra không sợ không có đầu ra”. Đó là ưu thế nổi trội hàng đầu của sản xuất Jatropha khi cây này có vị thế là cây sản xuất hàng hóa lớn.
– Là một cây lâu năm, nhưng ngay trong năm trồng đầu tiên đã thu hoạch được sản phẩm là hạt, trong khi cây lâu năm khác dù là cây nông nghiệp hay cây lâm nghiệp đều cần 5-7 năm mới thu được sản phẩm.
– Jatropha là cây có phổ thích nghi rộng, có sức chống chịu cao, mọc được ở mọi vùng đồi núi, dễ trồng, dễ sống, chịu hạn, chịu đất xấu, ít sâu bệnh, không bị gia súc xâm hại, dễ bảo quản, kỹ thuật rất đơn giản, dễ làm, bỏ vốn rất ít, rất phù hợp những vùng đất cằn cỗi, khí hậu khắc nghiệt, lại là các địa bàn cộng đồng các dân tộc thiểu số, dân trí chưa phát triển. Tính ưu trội này đã giúp cho Jatropha rất dễ được đồng bào miền núi chấp nhận, được coi là một cơ hội xóa đói giảm nghèo cho hàng chục triệu đồng bào miền núi.
Trải qua 15 năm nghiên cứu về dầu thực vật và diesel sinh học, Lý Xương Châu và các nhà khoa học Trung Quốc đã đánh giá Jatropha đứng đầu về thang điểm giá trị của các cây nguyên liệu làm dầu diesel sinh học như sau:
Nguồn: Lý Xương Châu và các cộng sự, Dầu diesel sinh học – năng lượng xanh (2005).
Ghi chú: X1: Giá thành kinh tế (điểm càng cao, giá thành càng thấp)
X2: Công năng sinh thái
X3: Công năng xã hội
Tuy nhiên, cây Jatropha từ cây hoang dại, bán hoang dại chuyển thành cây lâm nghiệp hàng hóa, tuy được coi là một phát hiện mới của khoa học, trải qua thời gian nghiên cứu chưa đầy 20 năm, cũng có thể coi là một cây công nghiệp trẻ nhất trong lịch sử loài người, vì vậy cho đến nay tuy là loại cây được trồng ở khắp mọi nơi trên thế giới, nhưng chưa có một hình mẫu nào sản xuất tập trung, chuyên canh, được đánh giá đầy đủ về năng suất, hiệu quả. Vì vậy, việc khẳng định ngay mục tiêu về quy mô phát triển của cây này là chưa đủ căn cứ khoa học và thực tiễn, phải vừa làm, vừa nghiên cứu để có quyết định phát triển đúng đắn, để vừa không bỏ lỡ thời cơ, vừa không quá mạo hiểm gây nên thiệt hại không đáng có.
2. Khả năng sản xuất Jatropha ở Việt Nam
Ở các vùng núi nước ta, hầu hết các tỉnh đều có thể trồng được cây Jatropha.
Đối chiếu với yêu cầu sinh lý, sinh thái của cây Jatropha, các yếu tố khí hậu và thổ nhưỡng ở các tỉnh miền núi của nước ta đều nằm gọn trong ngưỡng yêu cầu của cây này.
Sau khi khẳng định được các vùng miền núi Việt nam đã có thể trồng được Jatropha thì vấn đề còn lại là các yếu tố về quỹ đất chưa sử và khả năng cạnh tranh của Jatropha so với các cây trồng khác trong điều kiện tương tự cũng như sức cạnh tranh về chất lượng và giá Jatropha được sản xuất ở các nước khác.
Đánh giá khả năng sản xuất Jatropha tại các vùng ở Việt Nam
Từ các lý do trên, ở các vùng đồi núi Việt Nam, chỉ có 3 vùng có khả năng sản xuất Jatropha quy mô lớn là vùng miền núi phía Bắc, Bắc Trung Bộ, Nam Trung Bộ vừa có điều kiện khí hậu phù hợp, lại có quỹ đất chưa sử dụng còn nhiều, đất dốc, trồng được Jatropha có thu nhập cao hơn, có khả năng cạnh tranh với cây công nghiệp, cây ăn quả và các cây lâm nghiệp khác.
Còn các vùng Tây Nguyên và Đông Nam Bộ, tuy điều kiện khí hậu rất phù hợp, nhưng quỹ đất chưa sử dụng không nhiều, là vùng đất tốt, đất ít dốc cần giành ưu tiên để phát triển cây công nghiệp cho thu nhập cao như cao su, cà phê, chè (chất lượng cao), tiêu, điều, cây ăn quả và một số cây đặc sản khác, không nên sản xuất Jatropha (trừ khi Jatropha có giống năng suất, hàm lượng dầu cực cao, giá dầu thế giới gia tăng đột biến).
3. Lộ trình phát triển cây Jatropha ở Việt Nam
Hiện nay nhiều doanh nghiệp Việt Nam và nước ngoài đang mong muốn đầu tư lớn để phát triển Jatropha và sản xuất diesel sinh học ở nước ta, Nhà nước cần khuyến khích, nhưng nói chung nên chia làm 2 giai đoạn:
– Giai đoạn 1: Từ 2007-2010: Trồng khảo nghiệm trên quy mô cần thiết ở các tỉnh có điều kiện, kết hợp nghiên cứu khoa học toàn diện về cây này, đồng thời rút kinh nghiệm của các nước đã trồng trên diện tích rộng, nhất là nước có điều kiện tương tự như nước ta( Trung Quốc, Thailan, Mianma…) để đánh giá toàn diện về cây này, từ đó rút ra kinh nghiệm để đề ra mục tiêu giai đoạn 2.
– Giai đoạn 2: Sau 2010, sẽ dựa vào tổng kết kinh nghiệm giai đoạn 1 để đề xuất chủ trương, chính sách phát triển. Nếu khẳng định được hiệu quả thì sẽ phát triển lớn.
Trong điều kiện nước ta, nên phát triển Jatropha theo hai hướng, một là sản xuất theo hướng sinh thái, chủ yếu để bảo vệ môi trường như trồng ở vùng sa mạc hóa, vùng rừng phòng hộ đầu nguồn, đất bãi thải khoáng sản để phục hồi sinh thái và trồng làm đường băng cản lửa để bảo vệ rừng và trồng làm dải cây xanh ven đường bộ, đường xe lửa, do dân trồng, dân hưởng lợi, hai là sản xuất hàng hóa lớn chủ yếu vì mục tiêu lợi nhuận kinh tế, cũng phải dựa vào dân trồng, còn các doanh nghiệp (trong nước và ngoài nước) đầu tư xây dựng công nghiệp chế biến dầu và các sản phẩm khác thông qua hợp đồng dài hạn giữa doanh nghiệp và hộ nông dân để xây dựng ngành kỹ nghệ diesel sinh học hiện đại, gắn sản xuất với chế biến và tiêu thụ, tạo ra hiệu ứng tổng hợp về kinh tế xã hội và môi trường với chuỗi giá trị mới, thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu và chấn hưng nền kinh tế miền núi.